Thứ Tư, 12 tháng 11, 2025

Ai có nhu cầu 'tự hào dân tộc'?

 Lê Anh Hùng

 

 

Trong đời sống tinh thần của người Việt hiện nay, cụm từ “niềm tự hào dân tộc” được nhắc đến với tần suất dày đặc – từ những bản tin truyền thông đến các khẩu hiệu treo dọc đường, từ những cuộc thi sắc đẹp cho đến các bài diễn văn chính trị. Nghe thì có vẻ cao quý, thiêng liêng, nhưng nếu chịu khó dừng lại đôi chút để đặt câu hỏi, ta sẽ thấy có điều gì đó không trong sáng phía sau.

Bộ máy tuyên truyền chính thống ở Việt Nam cùng đội ngũ dư luận viên hùng hậu của nó thường cố tình xoá nhoà ranh giới giữa “dân tộc Việt Nam” và “chính thể Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”. (Dòng chữ “Tôi yêu Việt Nam”, chẳng hạn, luôn được đặt trên nền Quốc kỳ hoặc nền màu đỏ, màu của Quốc kỳ và đảng kỳ.) Trong cách nói của họ, hai khái niệm ấy gần như đồng nhất. Khi họ nói “tự hào dân tộc”, thực chất họ đang muốn ta tự hào về chính thể hiện hành; khi họ ca ngợi “Việt Nam vươn ra biển lớn”, họ thực ra đang nói về “thành tựu của Đảng và Nhà nước”. Từ đó, niềm tự hào dân tộc bị biến thành một công cụ chính trị, một thứ băng keo cảm xúc dùng để gắn người dân vào hệ thống quyền lực, khiến mọi người tin rằng lòng yêu nước đồng nghĩa với lòng trung thành với chế độ.

Vậy dân tộc Việt Nam có đáng để chúng ta tự hào hay không? Câu trả lời ở đây dĩ nhiên là có. Với một lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước; một kho tàng văn hóa, ngôn ngữ, văn học và nghệ thuật phong phú; một truyền thống hiếu học và lòng nhân ái sâu sắc – Việt Nam quả có nhiều điều đáng để chúng ta tự hào. Tuy nhiên, không riêng gì Việt Nam, trên thế giới này chẳng có quốc gia nào mà lại không có niềm tự hào của mình cả. Người Mỹ có niềm tự hào dân tộc của người Mỹ, người Anh có niềm tự hào dân tộc của người Anh, rồi người Nhật, người Hàn… hay ngay cả những người láng giềng Lào và Campuchia của chúng ta, ngay cả một bộ tộc ở Châu Phi cũng đều có niềm tự hào dân tộc của họ.


Câu hỏi đặt ra ở đây không phải là có nên tự hào hay không, mà là ai có nhu cầu “tự hào dân tộc”, và tự hào để làm gì.

Thoạt nghe, câu hỏi ấy tưởng như trừu tượng và mông lung khi đặt ra cho xã hội. Nhưng chúng ta hãy thử bắt đầu từ một mô hình nhỏ hơn và gần gũi hơn: một gia đình. Gia đình vẫn được coi là “tế bào của xã hội”, và ở đó các cơ chế tâm lý thường phản ánh chính xác những gì diễn ra ở quy mô cộng đồng hay xã hội.

Giả sử bạn sinh ra trong một gia đình có mười thành viên. Về mức độ thành công – tính chung cả học vấn lẫn kinh tế – mỗi người trong số họ được xếp từ 1 đến 10. Khi ấy, nếu quan sát kỹ, bạn sẽ nhận thấy một quy luật tâm lý khá phổ biến:

  • Những người tự hào về gia đình mình nhất thường là những người ít thành công nhất. Họ là những người dễ nói những câu kiểu như: Gia đình tôi danh giá lắm! Bố tôi từng là phó chủ tịch tỉnh; ông anh tôi đang là chủ tịch huyện.” Ở họ, niềm tự hào gia đình trở thành một cơ chế bù đắp, giúp họ quên đi sự yếu kém của bản thân. Thay vì cố gắng thay đổi vị thế cá nhân, họ mượn ánh hào quang của tập thể – gia đình, dòng họ – để che phủ những thất bại riêng.
  • Ngược lại, những người thành công nhất trong gia đình lại thường ít nói về niềm tự hào gia đình nhất. Họ thấy chẳng nên tự hào về gia đình khi còn có những thành viên gia đình đang ở dưới đáy xã hội. Thay vì tự hào, họ chính là những người lo lắng cho gia đình nhiều hơn cả: họ muốn làm thế nào để những thành viên gia đình mình thoát khỏi vũng lầy và bước lên những nấc thang danh vọng trong xã hội.

Khi mở rộng quy luật này ra quy mô xã hội, ta thấy một bức tranh tương tự: Những người càng kém thành công trong đời sống vật chất và tinh thần thì thường có nhu cầu “tự hào dân tộc” mãnh liệt hơn cả. Ngược lại, những người đạt được nhiều thành tựu cá nhân – có tri thức, có năng lực, có trải nghiệm quốc tế – lại thường ít tự hào hơn, và thay vào đó họ suy tư cho cộng đồng, xã hội và đất nước nhiều hơn.

Tại sao lại như vậy? Đơn giản, đối với những người thuộc những tầng lớp thấp trong xã hội, “niềm tự hào dân tộc” là một điểm tựa tinh thần. Khi bản thân không có gì đáng để tự hào – không học vấn, không sự nghiệp, không tự do – họ sẽ bấu víu vào “tự hào tập thể” để cảm thấy mình vẫn có giá trị. “Tôi tuy nghèo, nhưng tôi là người Việt Nam, một dân tộc anh hùng.” “Tôi không làm được gì lớn, nhưng dân tộc tôi đã từng đánh thắng nhiều đế quốc.” Những câu nói ấy giúp họ xoa dịu mặc cảm thất bại, và trong một chừng mực nào đấy, giúp họ tiếp tục sống.

Trong khi đó, những người thành công hơn, có tầm nhìn rộng hơn, lại thấy niềm tự hào ấy thật lạc lõng khi đặt bên cạnh những bất cập của xã hội và đất nước: giáo dục lạc lối, môi trường ô nhiễm, pháp luật bị thao túng, hồ sơ nhân quyền tệ hại, nền tảng khoa học – công nghệ thấp kém, v.v. Thay vì tự hào dân tộc, họ cảm thấy hổ thẹn khi hình dung ra con số hơn 40 nghìn cô dâu Việt ở Hàn Quốc năm 2025; thay vì tự hào dân tộc, họ cảm thấy đau đớn khi nghĩ đến 39 người Việt bị chết ngạt thảm thương trong một chiếc xe tải đông lạnh tại London năm 2019; thay vì tự hào dân tộc, họ đau đáu và trăn trở về việc làm thế nào để Việt Nam trở thành một quốc gia tự do, dân chủ và văn minh, “sánh vai với các cường quốc năm châu”.


“Sản phẩm” của nền giáo dục nhồi sọ về “tự hào dân tộc”: những thanh niên từ “thiên đường XHCN” sang làm thuê tại xứ sở “tư bản đang giãy chết”

Điều trớ trêu là bên cạnh tầng lớp học sinh, sinh viên (những người vốn chịu ảnh hưởng nặng nề của nền giáo dục nhồi sọ và chưa trưởng thành về nhận thức) thì chính những người có nhu cầu “tự hào dân tộc” cao nhất lại là đối tượng dễ bị tuyên truyền thao túng nhất. Họ sẵn sàng hò reo khi đội tuyển bóng đá thắng một trận giao hữu, coi đó như minh chứng cho “sức mạnh dân tộc”. Họ xúc động rơi lệ khi nghe những bài hát ca ngợi đất nước, và tin rằng tất cả thành tựu – từ đường cao tốc cho đến xuất khẩu nông sản – đều là những thành quả của chế độ. Trong khi đó, những người có khả năng tư duy phản biện, biết đặt câu hỏi, lại bị chụp mũ là “thiếu lòng tự hào dân tộc”, “mất gốc”, hay thậm chí “phản động”, “phản quốc”.

Như vậy, khái niệm “tự hào dân tộc” ở Việt Nam ngày nay không chỉ là một cảm xúc tự nhiên, mà đã trở thành một công cụ chính trị được khai thác có chủ đích. Nó được sử dụng để củng cố lòng trung thành, để đánh lạc hướng dư luận khỏi những vấn đề nhức nhối của xã hội như tham nhũng, bất công, môi trường hay nhân quyền. Người dân được khuyến khích hãnh diện về “điện thoại Make in Vietnam” thay vì đòi hỏi một nền giáo dục khai phóng, tự hào về “đội tuyển bóng đá vào chung kết U23 châu Á” thay vì chất vấn những bất cập trong bộ máy công quyền.

Tất nhiên, tự hào dân tộc không xấu. Nhưng nếu tự hào chỉ để quên đi khổ đau và bất công, thì đó không còn là tự hào, mà là thứ thuốc gây mê tinh thần nguy hiểm. Nếu tự hào chỉ để thỏa mãn nhu cầu cảm xúc của những người yếu thế, thì đó là một dạng độc dược tai hại cho xã hội, cho đất nước.

Niềm tự hào chân chính không nằm ở những khẩu hiệu rỗng tuếch, không nằm ở những kỷ lục Guinness vô thưởng vô phạt hay những tấm huy chương vàng choé ở vùng trũng thể thao ASEAN. Nó nằm ở nỗ lực không ngừng của mỗi con người trong việc làm cho xã hội trở nên tốt đẹp hơn, ở khả năng nhìn thẳng vào sự thật và dám lên tiếng, dám đòi hỏi sự thay đổi và dám thay đổi, ở thái độ xử thế sao cho xứng đáng với truyền thống lịch sử dựng nước và giữ nước quật cường của dân tộc.

Tóm lại, câu hỏi “Ai có nhu cầu tự hào dân tộc?” dẫn chúng ta đi đến hai kết luận giản dị:

  • Những ai thiếu tự tin về bản thân nhất sẽ cần đến “niềm tự hào dân tộc” nhiều nhất.
  • Những ai đủ bản lĩnh, đủ tri thức và đủ tinh thần tự do thì không cần phải hét to lên rằng mình tự hào – họ trăn trở, suy tư và âm thầm làm cho dân tộc đáng tự hào hơn.

Và có lẽ chỉ đến khi nào mỗi người Việt đều có thể tự hào mà không bị ai dạy dỗ phải tự hào thì lúc ấy dân tộc chúng ta mới thật sự trưởng thành./.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét