Thứ Sáu, 18 tháng 10, 2024

Cuộc bầu cử tổng thống lần thứ 47 ở Mỹ

 Lê Anh Hùng | 18.10.2024

 

 

I. Cuộc đối đầu giữa hai đảng trong cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 2024

Theo lệ thường, cứ 4 năm một lần trên xứ sở cờ hoa lại diễn ra cuộc bầu cử tổng thống. Mặc dù cuộc bầu cử năm nay chưa chính thức diễn ra (ngoại trừ một số bang tiến hành bỏ phiếu trước), song những gì mà công chúng được chứng kiến cho đến nay cho thấy đây hứa hẹn là một trong những cuộc bầu cử kịch tính nhất trong lịch sử bầu cử tổng thống Mỹ.

Sau cuộc tranh luận giữa hai ứng cử viên là đương kim Tổng thống Joe Biden và cựu Tổng thống Donald Trump ngày 27 tháng 6 năm 2024, với màn trình diễn tệ hại của mình, Tổng thống Joe Biden buộc phải tuyên bố từ bỏ cuộc đua vào Nhà Trắng ngày 21 tháng 7 năm 2024, đồng thời giới thiệu Phó Tổng thống Kamala Harris làm ứng cử viên tổng thống của Đảng Dân chủ.

Các cuộc thăm dò dư luận ngay sau cuộc tranh luận giữa Joe Biden và Donald Trump cho thấy ưu thế nghiêng về cựu Tổng thống thứ 45 của Mỹ. Tuy nhiên, việc Phó Tổng thống Kamala Harris được đề cử và không lâu sau đó nhận được sự chấp thuận rộng rãi trong nội bộ Đảng Dân chủ đã khiến tình hình nhanh chóng thay đổi. Chỉ trong vòng 24h kể từ khi ông Biden tuyên bố rút lui và ủng hộ cấp phó của mình, bà Kamala Harris đã lập kỷ lục khi huy động được tới 81 triệu USD tiền ủng hộ, tổng số tiền huy động lớn nhất trong vòng 1 ngày trong lịch sử nước Mỹ. Kể từ đó đến nay, số tiền ủng hộ ứng cử viên tổng thống Kamala Harris liên tục thiết lập những cột mốc kỷ lục mới.

Song song với những mốc kỷ lục về số tiền ủng hộ, trong các cuộc thăm dò dư luận, tương quan về tỷ lệ người ủng hộ dần nghiêng về phía bà Harris. Trong cuộc thăm dò dư luận mới nhất do Reuters/Ipsos tiến hành ngày 16/10/2024, bà Harris vẫn duy trì tỷ lệ dẫn điểm trước ông Trump 45% - 42%. Đây là một tỷ lệ khá mong manh, và nếu xét đến kết quả cuộc bầu cử tổng thống Mỹ năm 2016 (khi hầu hết các cuộc thăm dò dự luận trước bầu cử đều cho kết quả nghiêng về ứng cử viên Hillary Clinton) thì mọi chuyện đều có thể xẩy ra, nghĩa là cơ hội thắng cử của ông Trump vẫn sáng sủa, nhất là khi ông luôn dẫn trước bà Harris về tỷ lệ người ủng hộ ông trong việc điều hành nền kinh tế.

Công việc kiểm phiếu trong các cuộc bầu cử tổng thống ở Mỹ nhìn chung luôn được tổ chức một cách khoa học, chặt chẽ, khách quan, nên khó có thể xẩy ra gian lận. Nếu ông Trump thắng cử, khả năng gần như chắc chắn là bà Harris và Đảng Dân chủ sẽ tôn trọng kết quả bầu cử. Tuy vậy, nếu bà Harris thắng cử, ông Trump chắc chắn sẽ phản đối kết quả bầu cử, như ông ta đã làm trong cuộc bầu cử 4 năm trước.

“Nếu tôi thất bại – Tôi sẽ nói với các bạn là điều đó là có thể. Bởi vì họ lừa dối. Đó là cách duy nhất mà chúng ta sẽ thua” – ông Trump đã phát biểu như vậy trước đám đông ủng hộ tại Michigan hồi tháng 9.

Sau khi thất bại trong cuộc bầu cử năm 2020, ông Trump và các đồng minh đã nỗ lực đảo ngược kết quả thông qua hàng chục vụ kiện, song cuối cùng vẫn không làm thay đổi hay trì hoãn việc kiểm phiếu. Ông ta cũng gây áp lực lên các quan chức ở bang Georgia nhằm kiếm thêm phiếu cho mình, và những người ủng hộ ông ta đã tập kích đồi Capitol vào ngày 6 tháng 1 năm 2021 nhăm ngăn cản Phó Tổng thống Mike Pence xác nhận chiến thắng của ông Biden. Một điểm khác biệt mấu chốt lần này là ông Trump không còn những điểm tựa quyền lực tổng thống như hồi 2020. Và một số đạo luật tiểu bang và liên bang đã được thông qua nhằm khiến cho việc ảnh hưởng đến kết quả bầu cử trở nên khó khăn hơn.

Nếu thất bại trong cuộc bầu cử lần này, ông Trump có thể khiếu nại chiến thắng của bà Harris trong các phiên toà, hoặc nêu lên những nghi vấn về tính chất hợp lệ của chiến thắng đó trong số những người ủng hộ bà. Điều này có thể gây ra những hậu quả khó lường. Ông ta thậm chí có thể khích lệ người ủng hộ mình biểu tình phản đối. Ngoài ra, ông ta còn có thể trực tiếp đưa vụ việc của mình ra trước công chúng Mỹ mà không cần chờ bằng chứng.

Như họ đã từng làm năm 2020, đồng minh của ông Trump tại các tiểu bang chủ chốt – các quan chức bầu cử địa phương, các nhà lập pháp bang và có lẽ cả các thẩm phán – có thể tìm cách trì hoãn việc xác thực (xác nhận việc kiểm phiếu chính thức của bang), thông qua những khẳng định về gian lận trong bầu cử.

 

II. Các phương thức chính và các quân bài thương lượng bí mật mà hai bên sử dụng nhằm công kích và áp chế hoạt động bầu cử của bên kia

Phương thức vận động bầu cử chính của hai bên vẫn là đưa ra chương trình nghị sự cùng những lời hứa hẹn đối với cử tri, đồng thời nhằm vào những điểm yếu của đối phương để công kích.

Chính sách ngoại giao của chính quyền Harris (nếu bà đắc cử) có lẽ không khác mấy so với chính sách hiện hành của Tổng thống Biden, đặc biệt là đối với Nga. Trong khi đó, ông Trump đã nhiều lần bóng gió về đột phá trong mối quan hệ với Nga nếu ông đắc cử nhiệm kỳ hai. Ông luôn nhất quán cho thấy thiên hướng sử dụng các lệnh trừng phạt như là những quân bài thương thảo (bargaining chips), gợi ý rằng một chính quyền Trump trong tương lai có thể giảm bớt trừng phạt để đổi lấy những nhượng bộ từ Nga – đây rõ ràng là mối quan tâm không chỉ của riêng cử tri Mỹ mà của cả thế giới.

Về phần mình, trong cuộc trả lời phỏng vấn kênh truyền hình thiên hữu Fox News ngày 16 tháng 10 vừa qua, bà Harris đã khẳng định chính quyền mới của bà không phải chỉ đơn thuần là sự tiếp nối những gì chính quyền Biden đang làm: “Nhiệm kỳ tổng thống của tôi sẽ không phải là sự tiếp nối nhiệm kỳ tổng thống của ông Biden. Giống như mọi tổng thống bước chân vào Nhà Trắng, tôi sẽ đem đến những trải nghiệm cuộc đời, những kinh nghiệm chuyên môn và cả những ý tưởng mới mẻ.” Với nguồn gốc Ấn Độ của mình, nếu bà Harris đắc cử, Mỹ sẽ gặp nhiều thuận lợi khi muốn lôi kéo Ấn Độ xích lại gần hơn về phía mình, xa dần ảnh hưởng của Nga, và tăng cường liên minh “bộ tứ kim cương” (Mỹ--Nhật--Ấn--Úc) nhằm chống lại sự trỗi dậy của con sư tử Trung Hoa.

 

III. Hai ứng cử viên có sử dụng các chủ đề Trung Quốc và Nga nhằm tác động đến kết quả bầu cử và đưa ra những phát ngôn cực đoan?

Trang The Conversation ngày 29 tháng 8 năm 2024 đăng bài “Bóng ma Trung Quốc đã xuất hiện trong ngôn từ vận động bầu cử tổng thống ở Mỹ – Đảng Cộng hoà nhiều hơn nhiều so với Đảng Dân chủ”. Bài báo cho biết là ông Trump đã nêu tên Trung Quốc đến những 14 lần trong bài phát biểu tại Đại hội Toàn quốc Đảng Cộng hoà hồi tháng 7 năm 2024. Từ “Trung Quốc” cũng xuất hiện trong các bài phát biểu quan trọng tại Đại hội Toàn quốc Đảng Dân chủ. Trong đêm đầu tiên, Tổng thống Joe Biden nói rằng khi ông bước vào Nhà Trắng, “nhận thức chung lúc bấy giờ là Trung Quốc ắt sẽ vượt qua Mỹ”. “Giờ thì không ai còn nói vậy nữa”, ông đế thêm. Ứng cử viên tổng thống Kamala Harris nhắc lại cảm tính đó trong đêm cuối cùng, khẳng định nếu được bầu bà sẽ đảm bảo rằng “nước Mỹ, chứ không phải Trung Quốc, sẽ chiến thắng trong cuộc cạnh tranh của thế kỷ 21”.

Nga đã và đang can thiệp vào các cuộc bầu cử năm 2024 ở Mỹ thông qua các chiến dịch thông tin sai lệch và tuyên truyền, nhằm mục đích gây tổn hại đến Joe Biden, Kamala Harris cùng các đảng viên Dân chủ khác, trong khi nâng cao vị thế ứng cử viên của Donald Trump cùng những ứng cử viên ủng hộ chủ nghĩa biệt lập khác đồng thời làm xói mòn sự ủng hộ dành cho Ucraina và viện trợ cho NATO. Những nỗ lực này diễn ra trong bối cảnh sự can thiệp lớn hơn từ bên ngoài vào các cuộc bầu cử ở Mỹ năm 2024 và tuân theo mô thức trước kia của Nga về việc lan truyền thông tin sai lệch thông qua các tài khoản truyền thông xã hội giả mạo cùng các kênh YouTube cánh hữu nhằm mục đích chia rẽ xã hội Mỹ và thúc đẩy chủ nghĩa bài Mỹ (anti-Americanism). Ngày 4 tháng 9 năm 2024, Bộ Tư pháp Mỹ đã kết án các thành viên của công ty Tenet Media vì đã nhận 9,7 triệu USD như một phần trong một chiến dịch gây ảnh hưởng bí mật của Nga nhằm lôi kéo các dư luận viên cánh hữu Mỹ truyền bá những nội dung thân Nga cùng các thuyết âm mưu.

Một cách tương ứng, Đảng Dân chủ nói chung và bà Kamala Harris nói riêng thường thể hiện lập trường cứng rắn với Nga, trong khi phe cánh Donald Trump lại nhấn mạnh mối quan hệ hữu hảo Trump—Putin.

 

IV. Thông tin tiêu cực mà các ứng cử viên tổng thống của hai đảng có thể sử dụng để tấn công vào cuộc bầu cử

Thông thường, trong các cuộc bầu cử tổng thống Mỹ, các ứng cử viên hai đảng sử dụng những thông tin tiêu cực của nhau để công kích nhau, qua đó tác động đến lựa chọn của cử tri.

Ông Trump và phe cánh Cộng hoà của ông ta thường công kích những điểm yếu của ứng cử viên tổng thống Đảng Dân chủ và chính quyền Tổng thống Biden như màu da và sắc tộc của bà Kamala Harris, tình hình kinh tế Mỹ (đặc biệt là lạm phát) dưới thời ông Biden, vấn đề nhập cư, an ninh biên giới, sự sụp đổ của Kabul và cuộc rút quân trong hỗn loạn của Mỹ tại Afghanistan hồi tháng 8 năm 2021, v.v.

Ở chiều ngược lại, bà Harris cùng đồng minh thường xoáy vào những điểm yếu của ông Trump như vụ kích động bạo loạn tại Đồi Capitol ngày 6 tháng 1 năm 2021, lập trường của ông Trump về vấn đề nạo phá thai, mối quan hệ của ông Trump cùng phe cánh với Putin và nước Nga, hàng chục vụ kiện nhằm vào ông Trump (đặc biệt là những tai tiếng của ông liên quan đến phụ nữ), thói quen hành xử chà đạp lên những nguyên tắc dân chủ của ông Trump, tuổi tác của ứng cử viên Đảng Cộng hoà, v.v.

 

V. Lập trường chính sách và thái độ của hai ứng cử viên hai đảng đối với Việt Nam

Việt Nam từ lâu đã nằm trong chiến lược của Mỹ trong cuộc cạnh tranh quyền lực với Trung Quốc ở khu vực Châu Á – Thái Bình Dương cũng như trên phạm vi toàn thế giới. Mặc dù hai đảng Cộng hoà và Dân chủ có những chính sách nội trị và ngoại giao khác nhau, nhưng nhìn chung cả hai đảng đều cùng chia sẻ tầm nhìn về hiểm hoạ Trung Quốc đối với trật tự thế giới dựa trên luật lệ mà Mỹ và các đồng minh phương Tây chủ trương thúc đẩy. Chính sách đối với Trung Quốc thể hiện sự đồng điệu hiếm hoi trong sự hợp tác lưỡng đảng ở Washington, và điều này cũng khiến Bắc Kinh dường như không quan tâm mấy đến việc ai sẽ là chủ nhân Nhà Trắng sắp tới.

Chính sách của hai đảng chính trị lớn nhất ở Mỹ đối với Trung Quốc gần như tương đồng, trong khi Việt Nam lại là một mắt xích quan trọng trong chiến lược cạnh tranh và kiềm toả Trung Quốc của Washington. Vì vậy, có thể nói, lập trường chính sách và thái độ của hai ứng cử viên tổng thống hai đảng đối với Việt Nam cũng không khác nhau là mấy. Chính quyền của vị tổng thống mới sau ngày 20 tháng 1 năm 2025 chắc chắn sẽ tiếp tục những chính sách mà các đời tổng thống Mỹ gần đây đã áp dụng với Việt Nam. Nghĩa là, Washington sẽ tiếp tục lôi kéo và o bế Hà Nội, đưa Việt Nam vào danh sách ngoại giao ưu tiên, và xem nhẹ những vi phạm nhân quyền mang tính hệ thống của nhà cầm quyền cộng sản.

Bang giao quốc tế của Mỹ dựa trên 4 cột trụ là (i) chính trị ngoại giao, (ii) an ninh quốc phòng, (iii) kinh tế - thương mại - đầu tư, và (iv) các giá trị tự do - dân chủ - nhân quyền. Tuỳ hoàn cảnh, 4 cột này sẽ có những điều chỉnh cần thiết. Tuy trong ngắn hạn, do những ưu tiên chiến lược trước mắt, Mỹ có thể đặt nhẹ giá trị nhân quyền trong giao thiệp với Hà Nội hiện nay, song về lâu dài Mỹ chắc chắn sẽ không từ bỏ việc theo đuổi những giá trị đã làm nên nước Mỹ.

Điều đáng lưu ý duy nhất có lẽ nằm ở chỗ, ông Trump vốn là một nhà lãnh đạo thực dụng, đặc biệt là trên phương diện kinh tế, nên Việt Nam có thể sẽ phải có những nhượng bộ nhất định trong việc làm ăn với chính quyền của Tổng thống Donald Trump nếu ông ta đắc cử lần hai. Dù vậy, điều này có thể lại có lợi cho Việt Nam, khi Việt Nam đứng trước sức ép phải tạo điều kiện thuận lợi cho các tập đoàn lớn của Mỹ đến tìm kiếm cơ hội đầu tư.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét