Thứ Ba, 19 tháng 6, 2012

NHỮNG DANH HÀI CHÍNH TRỊ Ở VIỆT NAM

Lê Anh Hùng
Hà Nội, 19/6/2012



Người ta vẫn ví cuộc đời như một sân khấu lớn mà ở đó mỗi cá nhân thường phải thể hiện những vai diễn khác nhau. Những vai diễn này có thể là “vai diễn gia đình” – vai trò của một người trong mối quan hệ huyết thống hay hôn nhân với các thành viên gia đình khác (cha - con, vợ - chồng, v.v.), hay “vai diễn xã hội” – chức phận của một cá nhân trong xã hội (công chức, bộ trưởng, thủ tướng, v.v.).
Hầu như ai cũng có thể dễ dàng thể hiện các “vai diễn gia đình”: họ như thể sinh ra để thực hiện những vai trò đó. Đây là thực tế mà chúng ta có thể nhận thấy ở bất kỳ hình thái xã hội nào. Còn các “vai diễn xã hội” thì ngược lại, không phải ai cũng hội đủ những tố chất cần thiết để làm “ông nọ, bà kia”: chúng được trao cho các cá nhân với những phẩm chất nhất định, thông qua một quy trình hay cơ chế nhất định. Và vấn đề lại nằm ở chính cơ chế này: nó quyết định sự thành công hay thất bại của “vai diễn xã hội” mà một cá nhân được giao phó, qua đó quyết định sự thành bại của một hệ thống hay một hình thái xã hội.

Trong một chế độ dân chủ hay một chính thể độc tài sáng suốt (dưới sự trị vì của một đấng minh quân), các “vai diễn xã hội” thường được trao cho cá nhân nào xứng đáng nhất, với phẩm chất phù hợp nhất. Giới quan chức ở các quốc gia dân chủ thường được lựa chọn thông qua một quy trình rất cạnh tranh và minh bạch, nhờ đó mà những người được “chọn mặt gửi vàng” thường “nhập vai” rất tốt, họ “diễn” mà cứ như không vậy. Ngược lại, trong các chế độ độc tài chuyên chế, vốn thiếu tính cạnh tranh và minh bạch, các “vai diễn xã hội” quan trọng thường được trao cho những “diễn viên” thiếu phẩm chất cần thiết. Chẳng chóng thì chầy, các “diễn viên” trên sân khấu chính trị ở đây cũng hiện nguyên hình với đầy đủ “phẩm chất” đích thực của mình: đó là những kẻ ăn hại hay đám phường tuồng chuyên làm trò cười cho thiên hạ.

Trong khuôn khổ bài viết này, tác giả không dám bàn đến những kẻ phản dân hại nước, cũng như không thể “điểm danh” hết những “danh hài chính trị” từ cấp xã phường cho đến cấp trung ương vẫn đang được báo chí “biểu dương” hàng ngày, mà chỉ xin điểm qua một vài “danh hài” tiêu biểu trên sân khấu chính trị Việt Nam hiện nay, dù bản thân họ phần lớn đều hội đủ cả hai “phẩm chất” nói trên.

Tại buổi thảo luận đánh giá 10 năm đổi mới, phát triển DNNN ngày 8/12/2011 ở Hà Nội, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu: “Xảy ra chuyện như Vinashin, cuối cùng Thủ tướng đứng ra nhận trách nhiệm. Tôi nhận trách nhiệm chính trị với tư cách người đứng đầu Chính phủ, chứ tôi cũng không ra quyết định nào sai.” Thật là nực cười, bởi ngay cả một đứa trẻ có lẽ cũng đủ sức hiểu rằng bản thân việc không hành động (ra quyết định) trong phạm vi chức trách của mình cũng là một quyết định rồi, ấy là chưa kể đích thân ngài Thủ tướng còn ký Quyết định về việc phát hành 3.000 tỷ VNĐ trái phiếu trong nước được Chính phủ bảo lãnh cho Vinashin ngày 13/11/2009, dù trước đó đã xuất hiện rất nhiều lời cảnh báo về Vinashin.

Chỉ hơn 5 tháng sau thời điểm ngài Thủ tướng khoát tay phủi bỏ trách nhiệm của mình trong vụ Vinashin thì lại đến lượt Vinalines đổ bể và cựu Chủ tịch HĐTV Vinalines Dương Chí Dũng ca bài “tẩu vi thượng sách”. Ngày 25/5/2012, trước mọi con mắt của dư luận đang đổ dồn vào mình, Thủ tướng thản nhiên yêu cầu Bộ GTVT và Bộ Nội vụ báo cáo việc đề xuất thay đổi nhân sự và thực hiện quy trình bổ nhiệm ông Dương Chí Dũng làm Cục trưởng Hàng hải trong khi Thanh tra Chính phủ đang thanh tra việc chấp hành pháp luật trong công tác quản lý, sử dụng vốn và tại sản tại Vinalines. Tuy nhiên, chỉ vài ngày sau, người ta mới phát hiện ra rằng việc Bộ GTVT bổ nhiệm ông Dương Chí Dũng làm Cục trưởng là nhằm thực hiện Quyết định số 142/QĐ-TTg  ngày 6/2/2012 của chính Thủ tướng?! Vài ví dụ trên đủ cho thấy ngài Thủ tướng quả không hổ danh là “kép chính” trên sân khấu hài chính trị ở Việt Nam hiện nay chút nào.

Vụ Vinalines vừa qua còn cho thiên hạ thấy nhiều “kép phụ” đầy triển vọng khác, mà “điển hình” là Bộ trưởng GTVT Đinh La Thăng (người đơn giản là tiếp tục khẳng định “tên tuổi” của mình trên sân khấu hài chính trị). Dù vụ việc đang thu hút sự chú ý đặc biệt của công luận, song trước đòi hỏi bức xúc về một câu trả lời nghiêm túc từ phía Chính phủ, ngài Bộ trưởng vẫn thể hiện được phẩm chất phường tuồng của mình khi phát biểu với báo giới ngày 30/5/2012: “Tôi bổ nhiệm ông Dũng làm Cục trưởng để cứu Vinalines”!?

Không như ở các nước tư bản với nền dân chủ “thua chúng ta cả vạn lần” (theo lời của một danh hài khét tiếng khác với “nghệ danh” “Phó Doan”), nơi mà một chính khách vẫn phải trả giá bằng chiếc ghế của mình cho một câu nói hay cử chỉ hớ hênh, xã hội Việt Nam dường như đang ngày càng cảm thấy “bó tay” với những “quái kiệt” trên loại hình sân khấu đặc biệt này. Tại phiên thảo luận tổ vào chiều 24/5 vừa qua, ĐBQH Nguyễn Bá Thanh đã bình luận: “Vinalines [cứ] như chuyện đùa.” Hẳn ông Nguyễn Bá Thanh cũng thừa hiểu rằng những Vinashin, Vinalines kia mới chỉ là phần nổi của tảng băng chìm thôi. Và, với những “danh hài chính trị” tiêu biểu mà chúng ta đã điểm mặt chỉ tên trên đây, người dân Việt Nam sẽ còn rất nhiều dịp để nở những nụ cười mếu trước những “chuyện đùa” như vậy./.


Bài đã đăng trên Dân Luận ngày 19/6/2012 (http://danluan.org/node/12994).

Bài đã phát trên Radio Chân Trời Mới ngày 21/6/2012:



Chủ Nhật, 17 tháng 6, 2012

ĐƠN TỐ GIÁC BĂNG ĐẢNG MA TUÝ CỦA ÔNG HOÀNG TRUNG HẢI

Lê Anh Hùng



Kính gửi:     

  • Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương ĐCSVN
  • Quốc hội nước CHXHCNVN
  • Uỷ ban Trung ương MTTQVN
  • Uỷ ban Kiểm tra Trung ương ĐCSVN
  • Ban Bảo vệ Chính trị Nội bộ (Ban Tổ chức TW)
  • Bộ Công an
  • Các vị lão thành cách mạng
  • Hội Cựu Chiến Binh các cấp
  • Hội Người Cao Tuổi các cấp
  • Các cơ quan thông tấn báo chí

Tháng 3/2005, vợ tôi (Lê Thị Phương Anh, sinh ngày 11/11/1984; CMND số 013720063 do Công an Hà Nội cấp ngày 9/7/2004) bắt đầu đi làm nhân viên bán hàng tại một cửa hàng của Cty May Việt Tiến (nay là Tổng Cty May Việt Tiến) trên phố Chùa Bộc. Sau 3 ngày, Trọng - Trưởng phòng Marketing của Chi nhánh Cty May Việt Tiến tại Hà Nội - điều vợ tôi về làm nhân viên tại quầy hàng Việt Tiến ở Tràng Tiền Plaza, do Loan, sinh năm 1978, làm tổ trưởng.

Ba tuần sau, Loan bị Trọng điều đi làm tổ trưởng quầy hàng Việt Tiến tại siêu thị Metro (đường Phạm Văn Đồng). Vợ tôi được Trọng giao làm tổ trưởng Việt Tiến ở Tràng Tiền Plazatrước thái độ kèn cựa và ghen tị của Loan và Thuỷ (sinh năm 1985, nhân viên Việt Tiến tại Tràng Tiền Plaza). Tuy nhiên, sau đó Thuỷ lại cảm phục và kết nghĩa chị em với vợ tôi, còn Loan thì vẫn ngấm ngầm ghen tức với cô ấy.
Thời gian làm tổ trưởng ở Tràng Tiền Plaza, vợ tôi cũng được Trọng tin tưởng nhờ giúp một số việc thuộc lĩnh vực của Trọng như ký kết hợp đồng với các đại lý, giao hàng... do Trọng còn bận rộn buôn bán ma tuý.  Dần dà, vợ tôi bị Trọng lừa và lôi kéo tham gia vào đường dây ma tuý của anh ta. Người tổ chức và điều hành băng đảng ma tuý này là ông Hoàng Trung Hải, lúc bấy giờ là Bộ trưởng Công nghiệp. Một số kho hàng tại các cửa hàng của Cty May Việt Tiến ở Hà Nội được bọn họ sử dụng để cất giấu ma tuý, trong đó có quầy hàng ở siêu thị Tràng Tiền Plaza. Băng nhóm này cũng lợi dụng xe chở hàng của Cty Việt Tiến để vận chuyển ma tuý.
Vợ tôi kể một lần cô ấy xách hai valy ma tuý đi giao hàng cho Trọng, vừa ra khỏi toà nhà Tràng Tiền Plazathì bị công an ập tới bắt giữ. Tuy nhiên chỉ chưa đầy 2 tiếng sau cô ấy lại được thả ra. Sau này Trọng cho vợ tôi biết là lần ấy chính ông Hải đã can thiệp để cứu vợ tôi và việc cô ấy bị bắt là do Loan báo cho công an. Vào tháng 4/2007, sau khi nghe vợ tôi tố cáo chuyện ông HT Hải buôn bán ma tuý, ông Nguyễn Khánh Toàn (Thứ trưởng TT Bộ Công an) đã định vào Đông Hà rồi cùng tôi vào Quy Nhơn để điều tra – điều này cũng đồng nghĩa với việc ít nhất là Bộ Công an cũng đã nghi vấn về cái chết của tay trợ lý thân cận của ông HT Hải từ lâu.
Vợ tôi cũng cho tôi biết là băng nhóm ma tuý Hải-Trọng từng có quan hệ với bà trùm ma tuý Nguyễn Thị Thơm, người đã bị bắt và bị kết án tử hình vào năm 2007.
Thời gian từ cuối năm 2005 cho đến đầu năm 2007, khi Trọng và Thuỷ được ông Hải bố trí trốn sang Trung Quốc để tránh sự truy lùng của công an, cặp bài trùng Hải-Trọng vẫn tiếp tục hoạt động buôn bán ma tuý cùng nhau.
Trong thời gian tham gia băng đảng ma tuý của ông HT Hải, vợ tôi đã biết nhiều vụ giết người (chủ yếu là nhằm bịt đầu mối) do băng nhóm này thực hiện, dĩ nhiên là dưới sự chỉ đạo của ông HT Hải. Sau đây là 5 trong số những nạn nhân của bọn họ:
1)    Viên trợ lý người Quy Nhơn, Bình Định của ông HT Hải (vụ này do chính ông HT Hải “sám hối” và kể với vợ tôi);
2)      Loan (vụ này do Thuỷ cho vợ tôi biết sau khi vợ tôi từ Anh trở về Việt Nam vào đầu năm 2008);
3)    Vợ đầu tiên và là vợ chính thức của Trọng (vụ này do Thuỷ cho vợ tôi biết sau khi vợ tôi từ Anh trở về vào đầu năm 2008);
4)    Một cháu gái 8-9 tháng tuổi, con của Trọng và Thuỷ, bị ông HT Hải bắt cóc vào giữa tháng 11/2007 và gây ra cái chết cho cháu vào ngày 4/2/2008;
5)    Thuỷ, vợ thứ hai và là vợ không chính thức của Trọng (bị ông HT Hải thuê Trinh - bạn của Trọng - thủ tiêu, một thời gian ngắn sau khi Trọng chết dưới bàn tay của ông ta vào đầu năm 2008);
6)     Nhung, nhân viên bán hàng của Cty May Việt Tiến, bị thủ tiêu vào đầu năm 2008. Ngoài ra, vợ tôi cũng cho tôi biết là không chỉ Nhung mà hầu như tất cả những cô gái khác tham gia vào đường dây ma tuý của ông HT Hải đều bị giết chết để bịt đầu mối, vợ tôi có lẽ là trường hợp duy nhất còn sống sót.
Dưới đây là chi tiết tội trạng của vợ tôi như chính cô ấy thú tội với tôi vào ngày 13/3/2008 tại khách sạn Hải Yến, 282 Nguyễn Trãi, Hà Nội:
Thời gian vợ tôi nằm trong đường dây ma tuý của ông HT Hải (năm 2005), quầy hàng của Công ty May Việt Tiến (nay là Tổng Cty May Việt Tiến) ở Tràng Tiền Plaza là một nơi cất dấu ma tuý. Một lần, có khách hàng đến hỏi mua quần áo, cô nhân viên mới tên là Liên chạy vào kho lấy kích cỡ theo yêu cầu của khách, và do vợ tôi sơ suất nên Liên đã phát hiện ra một lượng ma tuý lớn đang cất giấu ở trong kho. Vợ tôi báo cho Trọng và Trọng đã đe doạ vợ tôi, ép buộc cô ấy phải nghe lời hắn để thủ tiêu Liên, nếu không anh ta sẽ cho tôi biết việc vợ tôi tham gia vào đường dây ma tuý và thậm chí sẽ giết tôi. Do quá sợ hãi và non nớt (vợ tôi lúc đó mới 20 tuổi và vừa chân ướt chân ráo từ quê ra Hà Nội) nên cô ấy đã phải nghe theo lời Trọng. Theo âm mưu của Trọng, vợ tôi sẽ rủ Liên đi taxi đến thuê một phòng khách sạn để đánh bài (nói dối là cùng với một số nhân viên khác đến sau). Sau khi hai người đến trước, vợ tôi đã lén bỏ thuốc ngủ vào cốc nước của cô gái. Liên không biết gì, uống cốc nước và lăn ra ngủ. Lúc này, vợ tôi lấy kim tiêm đã pha sẵn ma tuý do Trọng đưa cho và tiêm vào người Liên, khiến cho nạn nhân bị sốc ma tuý rồi chết. Sau đó, vợ tôi rời phòng xuống sảnh khách sạn gặp Trọng đang đứng đợi ở đó và Trọng chở vợ tôi về. Tất nhiên, vụ việc được phía công an kết luận đơn giản là nạn nhân chết do sốc ma tuý. Đây là cách thủ tiêu quen thuộc trong băng nhóm ma tuý của ông HT Hải. Toàn bộ cảnh giết người đã bị Trọng bí mật bố trí máy quay phim để ghi lại và sau này hắn đã dùng đó làm bảo bối để khống chế vợ tôi.
Một số thông tin khác liên quan về băng đảng ma tuý của ông HT Hải:
1)    Trong băng nhóm này, có một người tên là Đức, lái xe cho một tổ chức phi chính phủ ở Quảng Trị. Hiện nay gia đình anh ta đã ra nước ngoài định cư. Năm 2009, anh ta đã hợp tác với Ban Chuyên án bí mật của Bộ Chính trị, tố cáo tội giết người của ông HT Hải. Đức cũng có mối quan hệ cá nhân với ông Nguyễn Khánh Toàn (nguyên Thứ trưởng TT Bộ Công an).
2)    Một lần, vào khoảng tháng 5/2006, khi vợ tôi đang mang thai được 4-5 tháng, ông HT Hải bảo vợ tôi bắt xe từ Đông Hà vào Huế để nhận hàng cho ông ta. Ông ta còn nói, "Thằng Hùng đã biết gì chưa, nếu chưa thì cho nó biết luôn." Vợ tôi về kể với tôi và định bụng đi nhưng tôi nói, "Ai làm gì thì làm nhưng mình tuyệt đối không được dính vào ma tuý, đấy là tội ác vô lương, đẩy người ta vào chỗ chết." Vợ tôi nghe lời tôi, nói lại với ông Hải và không đi nữa.
3)    Tôi không biết ông Lê Quốc Ân (nguyên Chủ tịch HĐQT Vinatex) và ông Nguyễn Đình Trường (nguyên TGĐ Cty May Việt Tiến) có buôn ma tuý hay không, vì vợ tôi không nói gì về họ. Nhưng có một lãnh đạo trong Cty May Việt Tiến từng buôn thuốc lắc là viên Kế toán trưởng Cty, tên là Thành, người mà tôi đã nhắc tới trong câu chuyện (tay này đã từng cho vợ tôi xem một va ly chứa đầy thuốc lắc của anh ta).
4)    Đầu tháng 1/2006, Vinatex tổ chức hội nghị ở Đà Nẵng, ông Nguyễn Khánh Toàn đã đưa vợ tôi từ Đông Hà vào Đà Nẵng, ngủ lại một đêm và cùng dự Hội nghị này (để đảm bảo an toàn cho cô ấy trong thời gian bọn XHĐ vẫn đang truy tìm). Người chở vợ tôi và ông Toàn là Đức, cùng nằm trong băng nhóm ma tuý của ông HT Hải. Vợ tôi và Đức cũng đã lợi dụng dịp này để vận chuyển ma tuý trên chính chiếc xe chở ông NK Toàn. Đầu năm 2006, ông NK Toàn đã từng giúp Trọng vận chuyển ma tuý từ Đồ Sơn về Hà Nội (ông muốn lấy lòng vợ tôi để moi thông tin). Khi ông NK Toàn doạ bắt vợ tôi vào cuối tháng 4/2007, vợ tôi đã doạ lại ông ta: “Nếu chú mà bắt con và đưa con ra toà thì con cũng sẽ khai rằng chú từng giúp Trọng vận chuyển ma tuý từ Đồ Sơn về Hà Nội. Ngoài ra trong dịp Vinatex tổ chức hội nghị ở Đà Nẵng, khi đưa con từ Đà Nẵng về Đông Hà con có mang theo một bánh ma tuý trên xe chú.”
5)    Cuối tháng 3/2006, ông Nguyễn Tấn Dũng nhờ ông Bùi Đại Thắng, Giám đốc Cty Công trình Đô thị Quảng Trị, vào Quy Nhơn (Bình Định) để tìm hiểu về vụ ông HT Hải giết tay trợ lý. Tại nhà bố mẹ người trợ lý của ông HT Hải, ông Thắng đã thu thập được rất nhiều tài liệu, chứng cớ chứng minh tội ác của ông Hải. Taytrợ lý láu cá này còn ghi âm được những cuộc mật đàm có mặt những người như ông Đỗ Mười…

÷

Tối 12/5/2012, khi Diễn đàn Hội luận Phỏng vấn Hiện tình Việt Nam phỏng vấn tôi (lần thứ 2) về vụ tố cáo của tôi, người thực hiện cuộc phỏng vấn hỏi tôi là có biết gì về tin ông Hoàng Trung Hải là người của Cục Tình báo Hoa Nam (Trung Quốc) hay không? Tôi trả lời: “Trong câu chuyện tố cáo của tôi không có thông tin đó. Tuy nhiên, mấy ngày gần đây, một số vị lão thành cách mạng ở Hà Nội cho tôi biết rằng bố ông HT Hải là người Hán, và lý lịch ông ta có vấn đề.” Người phỏng vấn cũng cho tôi biết đó là tin từ nguồn tin quốc nội của họ.
Vì thông tin đó liên quan mật thiết đến vụ việc tố cáo của tôi nên ngày 14/5/2012, tôi đã công bố bản chụp bức TÂM HUYẾT THƯ đề ngày 7/5/2007 của một số cán bộ, đảng viên tâm huyết với Đảng đã và đang công tác tại Uỷ ban Kiểm tra TW và Ban Tổ chức TW gửi Bộ Chính trị, Ban Bí thư và các Bí thư Tỉnh uỷ/Thành uỷ, Bí thư BCS Đảng các bô về sự gian lận trong lý lịch của ông HT Hải (bố ông ta thực chất là người Hán). Bức TÂM HUYẾT THƯ này tôi nhận được từ một số vị lão thành cách mạng, những người đã tiếp cận tôi về thư tố cáo của tôi. Tuy nhiên, hiện tôi chưa tiện cung cấp danh tính và địa chỉ của họ. Tôi đã gửi bức Tâm Huyết Thư đó tới hàng ngàn địa chỉ email trong và ngoài nước, trong đó có đầy đủ các cơ quan hữu quan ở Việt Nam. Một số trang mạng ở nước ngoài đã đăng tải bức thư này.
Nếu nội dung trong bức TÂM HUYẾT THƯ này là sự thật thì việc giải quyết vụ việc do tôi tố cáo lại càng trở nên vô cùng cấp bách vì sự hưng vong của nước nhà.
Thời gian qua, dư luận đã nhiều lần lên tiếng về việc các dự án hạ tầng quan trọng cứ lần lượt rơi vào tay nhà thầu Trung Quốc (90% gói thầu EPC thuộc về các công ty Trung Quốc - http://tuanvietnam.vietnamnet.vn/2011-06-17-khi-hau-het-cac-goi-thau-epc-vao-tay-trung-quoc), điều này tiềm ẩn nhiều nguy cơ rất lớn về kinh tế - xã hội và đặc biết là về an ninh - quốc phòng. Với bức TÂM HUYẾT THƯ này, quý vị đã có thể hình dung ra căn nguyên của vấn đề.
Thông tin ông HT Hải là người Hán thực ra đã có từ lâu, nhưng ít người biết, và chỉ sau khi tôi công bố bức Tâm Huyết Thư trên thì nó mới phổ biến trên mạng Internet. Lâu nay chúng ta vẫn biết là tình báo Trung Quốc, cụ thể là Cục Tình báo Hoa Nam, luôn tìm cách móc nối với các đối tượng trong nước, đặc biệt là người Việt gốc Hán, để làm việc cho họ. Vì thế, việc họ móc nối với ông HT Hải và biến ông ta thành một “siêu điệp viên” là khả năng hoàn toàn có thể xẩy ra. Điều này cũng hoàn toàn hợp logic với lời tố cáo của tôi là ông HT Hải từng bán tài liệu liên quan đến an ninh quốc gia cho nước ngoài. Với một kẻ đã từng buôn bán ma tuý, từng sát hại nhiều người như ông HT Hải thì rõ ràng là không có việc gì mà ông ta không dám làm cả.
Quý vị có thể hình dung ra phần nào vai trò ảnh hưởng của ông Hoàng Trung Hải đến đời sống KT-XH cũng như an ninh – quốc phòng của đất nước qua những thông tin sau:
1.      Theo Quyết định số 1476/QĐ-TTg ngày 25/8/2011 của Thủ tướng Chính phủ thì PTT Hoàng Trung Hải được giao những nhiệm vụ:
a)      Giúp Thủ tướng Chính phủ trực tiếp theo dõi, chỉ đạo các lĩnh vực công tác trong khối kinh tế ngành và phát triển sản xuất bao gồm: nông, lâm, ngư nghiệp, công nghiệp, thương mại - xuất nhập khẩu, xây dựng, giao thông vận tải, tài nguyên và môi trường.
-        Chỉ đạo bảo đảm năng lượng và tiết kiệm năng lượng.
-        Các dự án đầu tư trọng điểm quốc gia và các dự án nhóm A có nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước.
-        Các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu chế xuất.
-        Phát triển các loại hình doanh nghiệp và kinh tế hợp tác, hợp tác xã.
-        Đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) và đầu tư ODA.
-        Công tác phòng, chống lụt bão, tìm kiếm cứu nạn.
b)     Giúp Thủ tướng Chính phủ theo dõi và chỉ đạo: Bộ Công Thương; Bộ Xây dựng; Bộ GTVT; Bộ NN và PTNT; Bộ Tài nguyên và Môi trường.
c)     Làm nhiệm vụ Chủ tịch Hội đồng quốc gia về tài nguyên nước; Trưởng Ban Chỉ đạo Nhà nước các Dự án trọng điểm về dầu khí; Trưởng Ban Chỉ đạo Tổ chức điều phối phát triển các Vùng kinh tế trọng điểm; Trưởng Ban Chỉ đạo Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu; Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về chính sách nhà ở và thị trường bất động sản; Chủ tịch Hội đồng quốc gia, Trưởng các Ban Chỉ đạo khác theo các lĩnh vực có liên quan.
d)     Các công việc khác theo sự phân công, ủy nhiệm của Thủ tướng.
2.     Ngày 25/3/2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký Quyết định số 320/QĐ-TTg bổ nhiệm PTT Hoàng Trung Hải làm Trưởng ban Ban Chỉ đạo Quy hoạch và Đầu tư Xây dựng Vùng Thủ đô Hà Nội; ngày 12/9/2008, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký quyết định số 1250/QĐ-TTg về việc thành lập Ban Chỉ đạo Nhà nước các công trình, dự án trọng điểm ngành Giao thông vận tải, Trưởng ban là Phó TT Hoàng Trung Hải; ngày 4/5/2010, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký Quyết định số 580/QĐ-TTg về việc thành lập Ban Chỉ đạo Nhà nước Dự án Điện Hạt nhân Ninh Thuận, Trưởng ban là PTT Hoàng Trung Hải; ngày 15/4/2011, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký Quyết định số 546/QĐ-TTg, bổ nhiệm PTT Hoàng Trung Hải làm Chủ tịch Uỷ ban An ninh Hàng không Dân dụng Quốc gia. Ngoài ra PTT Hoàng Trung Hải còn là Trưởng ban Ban chỉ đạo Nhà nước Dự án Thuỷ điện Sơn La; Trưởng ban Ban Chỉ đạo Nhà nước Xây dựng Bảo tàng Lịch sử Quốc gia; Trưởng ban Ban Chỉ đạo Xây dựng Nhà Quốc hội; Trưởng ban Ban Chỉ đạo Nhà nước về điều tra cơ bản tài nguyên - môi trường biển; Trưởng ban Ban Chỉ đạo Nhà nước về Quy hoạch điện VI, v.v.
Đề nghị quý vị tham khảo thêm chi tiết câu chuyện trong file CAU CHUYEN TO CAO.doc mà tôi đã công bố để nắm được toàn bộ câu chuyện.  Tôi xin chịu trách nhiệm trước pháp luật về những thông tin trên đây (cũng như toàn bộ vụ việc do tôi tố cáo).
Hà Nội, ngày 17/6/2012
NGƯỜI TỐ GIÁC
Lê Anh Hùng
(CMND số 012191640 do CA Hà Nội cấp ngày 15/7/2004; điện thoại: 01243210177)


Phụ lục:          Ảnh một cô gái nằm trong băng đảng ma tuý của PTT Hoàng Trung Hải cùng với vợ tôi, đã bị băng nhóm này thủ tiêu




Ghi chú:         Vợ tôi là người mặc áo phông; Nhung, tên cô gái kia, đã bị băng nhóm ma tuý do ông HT Hải cầm đầu thủ tiêu để bịt đầu mối. Ảnh chụp vào mùa hè năm 2005, trong một chuyến “công tác” Hải Phòng của hai người.

Thứ Sáu, 15 tháng 6, 2012

VỀ MỘT NỀN VĂN HOÁ BỊ CƯỠNG BỨC

Lê Anh Hùng



Thật sai lầm khi lại mường tượng rằng quá trình tiến hoá
biểu thị một xu hướng liên tục nhằm tới sự hoàn hảo. Quá trình
đó chắc chắn là liên quan đến sự thay hình đổi dạng liên tục của sinh vật
nhằm thích ứng với điều kiện mới, song tuỳ thuộc vào bản chất của
những điều kiện như thế mà chiều hướng của những đổi thay
này sẽ đi lên hay đi xuống.
T. H. Huxley, The Struggle for Existence in Human Society, 1888


Dù đã hơn một năm trôi qua song hẳn không ít người vẫn chưa hết băn khoăn, ngờ vực trước thông tin UBND Tp Hà Nội đề ra mục tiêu xây dựng tiêu chí “người Hà Nội thanh lịch, văn minh” hầu “nâng cao đời sống văn hoá, tinh thần cho người dân Thủ đô”. [i]

Văn hoá là một khái niệm rộng và có rất rất nhiều định nghĩa khác nhau. Ngay từ năm 1952, Alfred Kroeber và Clyde Kluckhohn đã tập hợp được 164 định nghĩa về văn hoátrong cuốn Culture: A Critical Review of Concepts and Definitions. Năm 2002, UNESCO đã đưa ra định nghĩa về văn hoá (tạm dịch): “Văn hoá cần được coi như một tập hợp bao gồm những đặc trưng về tinh thần, vật chất, tri thức và cảm xúc của một xã hội hay một nhóm xã hội, mà bên cạnh văn học và nghệ thuật, nó còn bao hàm lối sống, phương thức chung sống, hệ thống giá trị, truyền thống và niềm tin."[ii]
Như vậy, những gì được coi là “thanh lịch, văn minh” nói trên chính là một phần của văn hoá. Vấn đề đặt ra ở đây là liệu việc áp đặt những tiêu chí đánh giá con người như vậy có khiến cho văn hoá phát triển theo chiều hướng lành mạnh hay nâng cao được “đời sống văn hoá, tinh thần” cho người dân như kỳ vọng hay không? Và một nền văn hoá chịu sự áp đặt duy ý chí như thế sẽ “phát triển” hay “tiến hoá” ra sao?

Dù định nghĩa thế nào thì văn hoá cũng là sản phẩm của con người xã hội: con người của sự tổng hoà các mối quan hệ xã hội. Vì vậy, chính các quy tắc giúp điều chỉnh mối quan hệ giữa người với người, hay nói rộng ra là giữa các chủ thể khác nhau trong xã hội mới là nhân tố quyết định xác định nên văn hoá của một cộng đồng hay một xã hội.
Những quy tắc này ra đời trong xã hội theo những cách khác nhau, chúng ràng buộc cách thức ứng xử vốn dĩ mang tính tuỳ ý và cơ hội chủ nghĩa của con người. Người ta phân biệt hai loại quy tắc (hay thể chế) dựa trên nguồn gốc của chúng:
  • Các quy tắc bên trong (thể chế bên trong) tiến hoá từ kinh nghiệm của con người và bao gồm những giải pháp có xu hướng phụng sự con người tốt nhất trong quá khứ. Ví dụ ở đây là các tập quán (customs), quy chuẩn đạo đức (ethical norms), quy ước thương mại (conventions in trade), cũng như luật tự nhiên (natural law[iii]) trong xã hội Anlo-Saxon. Việc vi phạm quy tắc bên trong thường bị trừng phạt phi chính thức, chẳng hạn là bởi những người khác trong cộng đồng, khi những người có thói hư tật xấu nhận ra rằng họ không còn được chào đón nữa.
  • Các quy tắc bên ngoài (thể chế bên ngoài) chịu sự áp đặt và chế tài từ trên xuống, sau khi được thiết kế và thiết lập bởi những người đại diện, vốn được uỷ quyền thông qua một quy trình chính trị. Một ví dụ ở đây là pháp luật. Các quy tắc bên ngoài đi kèm với những chế tài rõ ràng, đây là những hình phạt được áp đặt chính thức và có thể được áp đặt bằng cách sử dụng quyền lực hợp pháp (chẳng hạn như lực lượng cảnh sát).[iv]
Các quy tắc bên trong tự hình thành trong lòng xã hội và tiến hoá từ kinh nghiệm của con người nên nó tuỳ thuộc vào thiên hướng tự nhiên của một dân tộc, một cộng đồng hay một xã hội, chúng nằm ngoài ý chí của một người hay một nhóm thiểu số. Ngược lại, các quy tắc bên ngoài được thiết kế và áp đặt bởi những người đại diện chính trị, thông qua một quy trình chính trị, nên sự ra đời và áp đặt chúng lại tuỳ thuộc vào ý chí của một số ít cá nhân trong cộng đồng hay xã hội đó. Vấn đề sẽ nẩy sinh bất cứ khi nào mà ý chí của số ít cá nhân đó đi ngược lại ý chí và lợi ích chung của số đông. Trong các xã hội dân chủ, cơ chế vận hành dân chủ của hệ thống chính trị sẽ cho phép người dân giám sát hữu hiệu những người đại diện chính trị của mình và khi cần thì loại bỏ những người đại diện ích kỷ và cơ hội chủ nghĩa. Trong một chính thể độc tài thì lại khác, quyền lực nhà nước không thuộc về nhân dân thông qua các lá phiếu bầu cử dân chủ, mà thuộc về một nhóm người vẫn đang thao túng quy trình bầu cử, khống chế các quyền lực xã hội như báo chí hay xã hội dân sự và lũng đoạn bộ máy nhà nước. Sự ra đời và áp đặt các quy tắc bên ngoài không phục vụ cho lợi ích của quảng đại quần chúng nhân dân, mà chủ yếu là nhằm phục vụ cho lợi ích của một nhóm người nhỏ bé đang nắm quyền lực. Mối quan hệ giữa người với người hay giữa các chủ thể khác nhau trong xã hội vì vậy mà trở nên méo mó và lệch lạc. Hậu quả đương nhiên ở đây là một nền văn hoá với những “sản phẩm” ngày càng xuống cấp, suy đồi.
Tham vọng xây dựng tiêu chí “người Hà Nội thanh lịch, văn minh” trên đây của chính quyền Tp Hà Nội không khỏi khiến người ta rùng mình nhớ lại một giai đoạn đầy bi thương khi mà hàng loạt công trình đền chùa, miếu mạo, nhà thờ… bị phá bỏ không thương tiếc; khi mà những di sản văn hoá truyền thống của dân tộc như ca trù, hát xẩm… bị lên án mạnh mẽ và không còn đất sống bởi những “chỉ đạo” và “chỉ thị” của Đảng CSVN. “Sáng kiến” đó có lẽ bắt nguồn từ sự lố bịch và dị hợm của cuộc vận động “học tập và làm theo” cái gọi là “tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” mà Đảng CSVN vẫn đang hô hào thực hiện suốt mấy năm nay, dĩ nhiên là bằng những đồng tiền thuế xương máu của nhân dân, hầu mong “xây dựng nền tảng văn hoá Việt Nam”, “xây dựng nền tảng đạo đức cho xã hội”(!?).[v]
Rõ ràng, một chủ thuyết phản tiến bộ kèm theo một thể chế chính trị lệch lạc, “bà đỡ” cho một rừng luật lệ tréo ngoe, phi nhân và bất công, cho những “chỉ đạo”, “chỉ thị” ngẫu hứng và duy ý chí nói trên, đã góp phần quyết định trong việc phá vỡ những nét đẹp văn hoá truyền thống của dân tộc, đồng thời nhào nặn nên một nền “văn hoá” mới – “nền văn hoá đậm đà bản sắc chính trị” với những dối trá, bịp bợm và suy đồi, một thực tế mà chúng ta vẫn đang phải chứng kiến hàng ngày ở hầu khắp mọi nơi: “văn hoá giao thông” với phương châm thực dụng “mạnh ai nấy chạy”; “văn hoá phong bì” với sự thống trị lạnh lùng, vô cảm của đồng tiền; “văn hoá tu bổ” với phong trào “bê tông hoá” các di tích văn hoá - lịch sử; “văn hoá cưỡng chế” với những “điển hình” như vụ “khoả thân giữ đất” ở Cần Thơ: “văn hoá chụp giật” với đủ hình thức “chặt chém” ở các khu du lịch, lễ hội, v.v. và v.v.

Tại buổi họp báo về cuộc hội thảo khoa học “Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, văn học nghệ thuật trong thời kỳ CNH, HĐH” do Hội đồng Lý luận, Phê bình Văn học Nghệ thuật TW tiến hành gần đây, PGS-TS Nguyễn Hồng Vinh, Chủ tịch Hội đồng, đã đưa ra nhận định: “Trong những năm qua tăng trưởng kinh tế của nước ta đã cải thiện đáng kể bộ mặt xã hội, nhưng bên cạnh đó đã và đang nảy sinh một thực tế đáng lo ngại là sự xuống cấp nghiêm trọng về văn hóa, về đạo đức xã hội; nhiều chuẩn mực bị đảo lộn; những giá trị tốt đẹp về truyền thống văn hóa của dân tộc đang bị xâm hại nghiêm trọng; các hành vi phi nhân tính của con người bộc lộ ngày càng tăng cả số lượng lẫn tính chất; khoảng cách giàu nghèo và sự chênh lệch trong hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền ngày càng lớn..., tiềm ẩn nguy cơ bùng nổ xã hội."[vi] Bên cạnh đó là vô số tiếng kêu của những người có lương tri trước tình trạng xuống cấp về văn hoá trong các lĩnh vực khác nhau của xã hội.[vii]Một cách ứng xử tuy không mới nhưng gần đây đã trở thành một nét “văn hoá” tiêu biểu cho “thời đại Hồ Chí Minh” – đó là “văn hoá phủi bỏ trách nhiệm” với những biểu hiện “điển hình” như “tôi không ra quyết định nào sai”, “dân bất bình nên phá nhà ông Vươn”, “vụ viêc ở Văn Giang là do các thế lực thù địch dàn dựng”, hay “việc bổ nhiệm ông Dương Chí Dũng là đúng quy trình”, v.v.

Điều đáng nói hơn nữa là quá trình “tiến hoá” về mặt văn hoá mà chúng ta đề cập trên đây vẫn đang diễn ra trong xã hội Việt Nam theo chiều hướng ngày càng suy đồi và đáng báo động, như cái quy luật mà nhà sinh học người Anh Thomas Henry Huxley (1825-1895) đã chỉ ra trong tác phẩm The Struggle for Existence in Human Society (Cuộc đấu tranh sinh tồn trong xã hội loài người, 1888) cách nay hơn một thế kỷ.

Khi người ta nặn ra những “danh hiệu” như “Gia đình văn hóa”, “Thôn văn hóa”, “Làng văn hóa”, “Ấp văn hóa”, “Bản văn hóa”, “Tổ dân phố văn hóa” và đặt việc “phong tặng” chúng vào trong tay chính quyền, người ta đã phó mặc số phận của những gì cấu thành nên khái niệm văn hoá cho sự thất thường và tuỳ tiện của quyền lực độc đoán.[viii] 

Văn hoá là sản phẩm của con người, nhưng với những thứ “văn hoá” như chúng ta đã nêu ra trong bài viết này thì đấy là những “đứa con” mà không một người mẹ có tiết hạnh và phẩm giá nào muốn thừa nhận, bởi chúng là kết quả của sự cưỡng bức quá ư thô bạo do những kẻ vừa bất lương vừa hoang tưởng thực hiện. 
Hãy cứu lấy nền văn hoá Việt Nam!



Lê Anh Hùng
Hà Nội, ngày 3/6/2012

____________
Ghi chú:

[i] Báo Hà Nội Mới ngày 29/12/2010: Sẽ xây dựng tiêu chí “Người Hà Nội thanh lịch, văn minh” (http://hanoimoi.com.vn/newsdetail/1000_nam_thang_long/419199/se-xay-dung-tieu-chi-nguoi-ha-noi-thanh-lich-van-minh.htm).
[iii] Luật tự nhiên (natural law) dựa trên sự khẳng định rằng con người có một số quyền bất khả xâm phạm nhất định. Theo Aristotle, mọi người ai cũng có một số quyền tối quan trọng và bất khả xâm phạm nào đó, bất kể nơi họ sống cũng như những quy ước và luật lệ mà cộng đồng của họ tuân theo. Luật tự nhiên thừa nhận, tất cả mọi người đều bình đẳng trên một số phương diện cơ bản nào đó. Trong kỷ nguyên hiện đại, khái niệm luật tự nhiên với tư cách một nguyên lý pháp lý cấp cao tiếp tục được thừa nhận sau những gì từng xẩy ra với các chế độ toàn trị. Ngày nay nó được thừa nhận rộng rãi như là nguồn gốc của một số quyền tự do thụ động cơ bản (tình trạng thoát khỏi sự can thiệp của các cơ quan quyền lực và những người khác).

[iv] Wolfgang Kasper & Manfred E. Streit: Kinh tế học thể chế: Trật tự xã hội và chính sách công (Institutional Economics: Social Order and Public Policy), trang 42 (http://ethongluan.org/index.php?option=com_docman&task=cat_view&gid=59&Itemid=)
[v] Báo Quân Đội Nhân Dân ngày 7/2/2009: Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh: Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” có ý nghĩa chính trị sâu sắc (http://www.qdnd.vn/qdndsite/en-us/75/47403/print/Default.aspx).
[vi] Báo Thanh Niên ngày 9/12/2011: Kinh tế phát triển nhưng văn hoá xuống cấp (http://www.thanhnien.com.vn/pages/20111209/kinh-te-phat-trien-nhung-van-hoa-xuong-cap.aspx).
[vii] Thử gõ cụm từ “sự xuống cấp văn hoá” trên Google, chúng ta sẽ nhận được vô số bài viết liên quan đến chủ đề này ở Việt Nam hiện nay: “Sự xuống cấp văn hoá của làng thể thao Việt Nam”; “Nghèo chất xám hay sự xuống cấp về văn hoá”; “Văn hoá bóng đá xuống cấp: Nhà dột từ… nóc”; “Văn hoá đọc xuống cấp: mối lo không của riêng ai”, v.v.
[viii] Theo Bộ VH-TT-DL, đến hết năm 2011, cả nước có trên 12,7 triệu/17,3 triệu gia đình (73,4%) được công nhận danh hiệu “Gia đình văn hóa” (http://www.tdtt.gov.vn/tabid/57/ArticleID/13279/Default.aspx). Dĩ nhiên, thể theo “văn hoá thành tích” ở Việt Nam tỷ lệ này vẫn không ngừng gia tăng qua các năm. Ai dám khẳng định là xã hội Việt Nam đang xuống cấp về văn hoá?!

Bài đã đăng trên Bauxite Việt Nam và bán nguyệt san Tổ Quốc ngày 15/6/2012 (http://to-quoc.blogspot.com/2012/06/le-anh-hung.html#more).